Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đủ phẩm chất, năng lực làm chủ bản thân, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng của Người là nền tảng định hướng để Đảng ta xây dựng Chiến lược con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Một là, các yếu tố hình thành nên con người Việt Nam phát triển toàn diện
Trên cơ sở tiếp thu lý luận về phát triển con người của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa kinh nghiệm của thế giới và Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, con người Việt Nam phát triển toàn diện là một thể thống nhất, kết hợp chặt chẽ các yếu tố, các mặt: đức, trí, thể, mỹ, tạo nên phẩm chất và năng lực (“hồng” và “chuyên”, đức và tài), “chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn”, để con người làm chủ ngày càng tốt hơn các quá trình phát triển của xã hội.
Đó là con người có những phẩm chất đạo đức trong sáng, cao đẹp, có sự phong phú về mặt trí tuệ (tri thức cũ và mới), sự mạnh khỏe về thể chất, sự hiểu biết sâu sắc về cái hay, cái đẹp, cái cao cả. Nếu thiếu đi một yếu tố nào đó thì vấn đề phát triển sẽ không được bảo đảm toàn diện. Muốn có những con người như vậy xuất hiện trong công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp xã hội, theo Hồ Chí Minh phải chủ động, có phương hướng, cách thức xây dựng. Người chỉ rõ: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi cát, tre gỗ… mà xây nên”(1).
Ngày 24-10-1955, trong bài “Gửi các em học sinh” đăng trên báo Nhân Dân, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận con người toàn diện trên các mặt đức, trí, thể, mỹ và yêu cầu phải giáo dục, phát triển con người theo những tiêu chí này. Tư tưởng này được Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định trong “Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi” tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa 1 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người viết: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về Đức dục, Trí dục, Thể dục”(2).
Các yếu tố đức, trí, thể, mỹ có vị trí vai trò riêng trong việc hình thành con người Việt Nam phát triển toàn diện nhưng cũng có mối quan hệ biện chứng, sự phát triển của bất kỳ thành tố nào cũng bị chi phối và có tác động của các thành tố khác ở nhiều mức độ khác nhau.
Thể lực với sức khỏe tốt là cơ sở, điều kiện để nẩy nở và phát triển các phẩm chất, năng lực khác của con người.
Phẩm chất đạo đức là “gốc”, nền tảng định hướng mọi hoạt động tri thức của con người.
Sự phong phú về mặt trí tuệ và sự hiểu biết sâu sắc về cái đẹp, cái tốt, cái cao cả… là các yếu tố rất quan trọng, quyết định trình độ, năng lực của con người phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng: Có tài mà không có đức là người vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Vì vậy, phải quan tâm đến tất cả các mặt đức, trí, thể, mỹ để con người Việt Nam phát triển một cách hài hòa, cân đối, toàn diện.
Hai là, về phương thức xây dựng con người phát triển toàn diện, cần tổ chứcgiáo dục, đào tạo một cách toàn diện, khoa học
Từ rất sớm, Hồ Chí Minhđã chỉ rõ, giáo dục là con đường ngắn nhất để đào tạo những con người phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của xã hội. Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã chỉ rõ mục đích và sứ mệnh của nền giáo dục mới là “đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”(3). Người yêu cầu dạy cũng như học đều hướng đến xây dựng con người mới – con người tập thể, biết phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng (tháng 10-1955), Hồ Chí Minh khẳng định giáo dục nhằm “đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà”(4).
Nội dung giáo dục toàn diện theo quan điểm Hồ Chí Minh, “phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động sản xuất”(5). Trong thư gửi các thầy giáo, cô giáo và các em học sinh ngày 24-10-1955, Người đã chỉ rõ những nội dung giáo dục cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau làm nền tảng cho sự phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam. Người viết:
“Đối với các em việc giáo dục gồm có:
+ Thể dục: Để làm cho thân thể khỏe mạnh, đồng thời cần giữ gìn vệ sinh riêng và vệ sinh chung.
+ Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm tri thức mới
+ Mỹ dục: Để phân biệt cái đẹp, cái gì không đẹp.
+ Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu của công (năm cái yêu)”(6).
Nội dung giáo dụctoàn diện này sẽ giúp con người Việt Nam có thế giới quan khoa học, trí tuệ, đạo đức, sức khỏe, tài năng, nhạy bén nắm bắt thời cuộc, tích cực chủ động, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, biết trân trọng và vươn tới cái hay, cái đẹp, cái cao cả để trở thành những người chủ tương lai của đất nước.
Trước lúc đi xa, Người căn dặn Đảng phải đào tạo đoàn viên, thanh niên thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò và tác dụng của giáo dục trong việc “trồng người”, rèn “đức”, luyện “tài” để con người phát triển toàn diện, đóng góp cho sự tiến bộ xã hội.
Giáo dục, rèn luyện qua các phong trào thi đua. Hồ Chí Minh yêu cầu phải có cách nhìn biện chứng, toàn diện, trong mỗi con người đều có cái mới,cái cũ, cái tốt,cái xấu, cho nên phải phấn đấu để những cái tốt, cái mới ngày càng nhiều hơn, những cái xấu, cái cũ ngày càng mất dầnđi. Bởi vậy, cần tổ chức tốt các cuộc vận động, phong trào xã hội nhằm lan tỏa sâu rộng cái tốt, cái mới tiến bộ trong toàn xã hội, đồng thời làm cho cái cũ, cái xấu ngày càng bị thu hẹp và mất dần đi trong đời sống xã hội. Các cuộc vận động, phong trào xã hội rộng lớn, thu hút nhiều người tham gia thì những cái tốt đẹp mới được nhân rộngvà phát huy mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào việc hình thành nên những giá trị tốt đẹp của con ngườiViệt Nam.
Đạo đức phải được thể hiện trong lối sống và nếp sống, là cơ sở để xây dựng lối sống và nếp sống mới lành mạnh hơn, hướng con người vươn tới tầm cao văn hóa. Xây dựng đạo đức mới được tiến hành đồng thời với xây dựng lối sống và nếp sống mới.
Vào giữa năm 1948, Hồ Chí Minh và Đảng phát động phong trào “Thi đua yêu nước” sôi nổi được thể hiện bằng những hành động cụ thể, thiết thực trong lao động sản xuất, học tập, chiến đấu để phát huy những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa thắng lợi. Người viết: “Lao động sáng tạo xã hội. Thi đua thì cải tạo con người”(7), nghĩa là thi đua giúp cải tạo con người và phát triển tài năng của con người trong lao động, trong công việc, tiến tới cải tạo xã hội, làm cho xã hội phát triển.Người khẳng định: “Chiến sĩ thi đua là những con người mới, những người luôn luôn cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính, là những người tôi trung của nhân dân, con hiếu của Tổ quốc”(8). “Thi đua là yêu nước. Yêu nước phải thi đua”(9).
Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “Người tốt, việc tốt” nhằm phát hiện những tập thể, cá nhân tiêu biểu trong lao động, học tập và chiến đấu, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Những việc làm tưởng chừng như rất nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày nhưng vô cùng ý nghĩa, đều nói lên tinh thần yêu nước, đạo đức trong sáng, thuần phong mỹ tục của nhân dân. Lấy những tấm gương người tốt, việc tốt để “hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(10).
Phát huy tính tích cực, chủ động và tinh thần tự giác vươn lên hoàn thiện bản thân. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành và phát triển con người toàn diện. Các nhân tố khách quan dù quan trọng đến đâu cũng không thể thay thế được sự tự giác vươn lên của mỗicá nhân.
Hồ Chí Minh cho rằng: để phát huy toàn diện các phẩm chất và năng lực của con người Việt Nam, cần “Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”(11), “phải có ý chí tự cường, tự lập, phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật”(12), “phải mạnh dạn, phải có quyết tâm, phải có chí khí tiến lên mãi, tiến lên không ngừng”(13). Nếu không có sự tự giác vươn lên hoàn thiện bản thân mình của các chủ thể thì sự nghiệp phát triển con người không thể thành công.
Ba là, vai trò của tổ chức đảng, chính quyền đoàn thể trong giáo dục, rèn luyện, xây dựng con người phát triển toàn diện
Trước hết phải xây dựng chuẩn mực giá trịcon người Việt Nam phát triển toàn diện, cólối sống cao đẹp, giàu tính nhân văn. Xây dựng hình mẫu để mỗi người mong muốn được đem tài đức của mình “hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”, “phụng sự Tổ quốc và nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh”. Đảng và Nhà nước, các đoàn thể phải tạo điều kiện, khuyến khích mỗi người Việt Nam phấn đấu, phát triển.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để từ đó củng cố niềm tin vào Đảng, đoàn thể, “tin tưởng vào tương lai của dân tộc, tin tưởng vào tương lai của cách mạng. Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh”(14).
Tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con người Việt Nam tự giác vươn lên về mọi mặt để hoàn thiện phẩm chất và năng lực, hình thành nên những phẩm chất mới, tiến bộ. Những điều kiện tốt nhất cho sự phát triển toàn diện của con người ở cả các phương diện chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một đức thì không thành người”. Cho nên, chúng ta phải chăm lo rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Người khẳng định: “Chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”. Và “không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo vệ cho nó được thỏamãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(15).
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong thời kỳ đổi mới
Vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các thời kỳ, Đảng ta kiên định quan điểm xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đại hội VI của Đảng chỉ rõ: “tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”(16).
Đại hội IX của Đảng xác định cụ thể hơn: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(17).
Đại hội X khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”(18).
Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, tiếp tục khẳng định việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, với bốn giá trị cốt lõi là trí – đức – thể – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trong xây dựng văn hóa, phải lấy xây dựng, phát triển con người có nhân cách, đạo đức, có lối sống tốt đẹp làm trọng tâm”.
Đại hội XII của Đảng đã đề ra những định hướng lớn trong việcxây dựng, phát triển văn hóa, con người: “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”(19).
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc… tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(20).
Quán triệt và thực hiện phương hướng trên, sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đã đạt được nhiều kết quả tích cực:
Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2019 là 73,6 tuổi, năm 2020 là 73,7 tuổi.
Từ năm 1990 đến năm2018, tổng thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 354,5%. Năm 2019, tổng thu nhập bình quân đầu người gần 2.800 USD. Năm 2020 là 2.779 USD. Năm 2021 là 2.177 USD, giảm so với các năm do hậu quả của đại dịch Covid.
Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất trên thế giới, với tăng trưởng trung bình HDI ở mức 1,36% trong suốt giai đoạn 1990 – 2018. Chỉ số HDI của Việt Nam năm 2019 là 0.703. Chỉ số HDI của Việt Nam năm 2020 là 0.706. Việt Nam từ nhóm các quốc gia, vùng lãnh thổ có chỉ số HDI trung bình đã gia nhập nhóm mức cao trong năm 2019 và 2020. Thứ hạng HDI của Việt Nam từ năm 2018 là 118 đã lên vị trí 117 vào năm 2019.
Qua đó cho thấy sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc quan tâm phát triển con người toàn diện, tạo mọi điều kiện tốt nhất để phát triển con người, gắn phát triển kinh tế với thực hiện chính sách xã hội. Đây là thành tựu rất đáng tự hào củaViệt Nam về xây dựng con người.
Bên cạnh những kết quả đạt được, sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đó là:
Thứ nhất, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sự xuống cấp về đạo đức diễn ra ở cả những lĩnh vực được xã hội tôn vinh như y tế, giáo dục, luật pháp, báo chí… Vì danh lợi người ta sẵn sàng chà đạp tình nghĩa, đạo lý, nhân phẩm. Ví dụ, trong thời gian qua, khi cả nước đang phải gồng mình chống dịch, thì vẫn có những người lợi dụng dịch bệnh thực hiện những hành vi thiếu đạo đức, vi phạm pháp luật, trục lợi cho cá nhân. Đặc biệt, sự suy thoái về đạo đức, tha hóa về nhân cách của một bộ phận cán bộ, đảng viên như Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(21), ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền tảng đạo đức xã hội, gây cản trở cho sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Thứ hai, bên cạnh những thành tích đạt được, giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, phát triển chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu giáo dục – đào tạo của nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao… Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học. Giáo dục “làm người”, đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ”(22). Một trong những nguyên nhân chính của những hạn chế, yếu kém của con người Việt Nam là do công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Để xây dựng thành công con người Việt Nam phát triển toàn diện,đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững đất nước, cần phải tập trung giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra. Đây là công việcvô cùng khó khăn đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc quyết liệt của toàn hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các địa phương.
TS Nguyễn Thị Lương Uyên
Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
_________________
Ngày nhận bài: 13-10-2022; Ngày bình duyệt: 17-10-2022; Ngày duyệt đăng: 06-03-2023.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.665.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.377.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.34.
(4), (5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.185, 175, 175.
(7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.408, 409.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.117.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.120.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.59.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.355.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.361.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.610.
(16) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1986, tr.9.
(17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,tr.114.
(18) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,tr.106
(19) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.126-127.
(20) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 330.
(21), (22) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,tr. 92, 82.