“Để chú Huyên ở ngoài Đảng có lợi hơn là ở trong Đảng”.

1. Bác Hồ từng nói: Không cốt cứ là đảng viên, vấn đề là có tư tưởng yêu nước thương dân, có nhiệt tình cách mạng, có phương pháp làm việc đúng, công tác tích cực thì sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ…

Từ một “ông nghè Tây”, GS.TS Nguyễn Văn Huyên rời bỏ cuộc sống đầy đủ dưới chế độ thực dân phong kiến để đi kháng chiến rồi trở thành bộ trưởng có nhiều đóng góp cho nền giáo dục nước nhà.

 

GS.TS Nguyễn Văn Huyên (1905-1975)  quê làng Lai Xá, Kim Chung (Hoài Đức, Hà Nội). Chị gái ông là bà Nguyễn Thị Mão vợ nguyên khâm sai Bắc bộ Phan Kế Toại – quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1947 thay cụ Huỳnh Thúc Kháng – Phó thủ tướng VNDCCH đến năm 1973). Khi còn nhỏ, ông học trường Albert Sarraut ở Hà Nội. Ông học rất giỏi, năm nào cũng được dự lễ phát thưởng của thành phố ở Nhà Hát lớn.

Năm 1926, ông cùng người em trai Nguyễn Văn Hưởng (bên trái) sang Pháp học. Ông học đại học Văn chương ở Montpellier, sau đó lên Paris học Luật và làm luận án tiến sĩ ở Sorbonne. Những dịp nghỉ hè, nghỉ lễ, cuối tuần, ông thường cùng bạn bè về các vùng quê của Pháp, du ngoạn khám phá châu Âu. Những chuyến đi đã giúp ông hiểu biết nhiều hơn về con người và văn hóa của nhiều vùng đất khác nhau.

Ban đầu, ông dự định làm luận án về quan hệ Pháp – Đông Dương thời kỳ 1800 – 1880 nhưng không được phép tra cứu lưu trữ của Bộ Thuộc địa về giai đoạn này. Ông tìm đến lĩnh vực mới là dân tộc học. Luận án Hát đối đáp của nam nữ thanh niên ở Việt Nam bảo vệ thành công năm 1934. Ông trở thành tiến sĩ văn chương người Việt Nam đầu tiên của Đại học Paris. Song song với ngôn ngữ và nghiên cứu, ông còn là giảng viên trường Ngôn ngữ phương Đông vào năm 1931 – 1935.

 

Năm 1935, ông trở về nước. Với học vấn và học vị cao bậc nhất lúc đó, ông khước từ lời mời làm quan và những hứa hẹn của chính quyền thực dân mà chỉ chọn nghề dạy học. Ông trở thành giáo sư Sử – Địa trường Trung học Bảo hộ, tức trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An, Hà Nội) cùng với nhiều nhà giáo như Nguyễn Mạnh Tường (tiến sĩ Văn chương và Luật), Hoàng Xuân Hãn (thạc sĩ Toán), Nguyễn Xiển (kỹ sư), Ngụy Như Kon Tum (thạc sĩ Lý-Hóa), một thế hệ những nhân vật nổi tiếng được đào tạo ở Pháp. Các ông không chỉ truyền đạt kiến thức mà truyền cả niềm đam mê khoa học, niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước cho các thế hệ học sinh trường Bưởi. Ở trường, giáo viên người bản xứ không được đối xử bình đẳng nên ông thôi dạy, chuyển sang nghiên cứu với tư cách là biệt phái viên ở trường Viễn Đông Bác Cổ vào năm 1938.

Năm 1936, Ông Nguyễn Văn Huyên nên duyên với bà Vi Kim Ngọc con gái của nguyên Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định

GS Huyên có một thư viện với hàng ngàn cuốn sách. Nhiều cuốn được đóng bìa da, bìa gấm, nạm chữ kim nhũ ghi Nguyễn Văn Huyên. Nhà văn hóa Hữu Ngọc, cựu học sinh trường Bưởi kể lại rằng, nhiều lần ông tâm sự với học sinh “mỗi lần thấy bàn đầy sách là tôi rộn lên vui sướng. Cuộc đời tôi là sách và nghiên cứu”.
Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, ông cùng với các ông Hồ Hữu Tường, Nguyễn Xiển, Ngụy Như Kon Tum đại diện cho trí thức thủ đô gửi điện tín yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị.

Năm 1946, ông Huyên (thứ 2 từ trái sang) cùng phái đoàn chính phủ Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu. Hội nghị đàm phán giữa hai chính phủ Việt Nam và Pháp về nền độc lập của Việt Nam. Từ Pháp, ông viết bức thư về cho vợ – bà Vi Kim Ngọc “…đây là dịp để Huyên thay mặt cho nhà mà đền nợ nước. Huyên cũng như bao nhiêu anh em sinh trưởng ở một nước nô lệ từ ngày hiểu biết tới nay ngoài hai chục năm thở vắn than dài, cố sức của mình để thoát khỏi vòng áp chế…Ngọc ạ, lúc này mà chúng ta không tự hy sinh một chút lợi riêng thì còn lúc nào nữa nhỉ?…Hai mươi năm lăn lộn sách đèn, một chục năm phiêu lưu chân giời góc bể mới có dịp giơ thẳng cánh bay…”.
Thời điểm cuối năm 1946, Hồ Chủ tịch đã cho mời GS Nguỵ Như Kon Tum – Giám đốc Trung học Vụ ngỏ ý muốn giao cho ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục, nhưng GS Kon Tum xin từ chối vì: Bộ trưởng Giáo dục phải là người có chuyên môn sâu rộng về khoa học xã hội và nhân văn thì quản lý, sáng tạo mới tốt. Tôi là người làm khoa học tự nhiên, e khó hoàn thành được nhiệm vụ. Ông tiến cử: “Người làm Bộ trưởng Giáo dục tốt nhất là GS-TS Nguyễn Văn Huyên”.
GS.TS Nguyễn Văn Huyên bắt đầu nhận chức Bộ trưởng Giáo dục trong Chính phủ kháng chiến từ ngày 3/11/1946, vào năm 38 tuổi.

Trước sự tin cậy và dặn dò của Hồ Chủ tịch “Chú phải chia bớt chữ cho nhân dân”, ông nhận nhiệm vụ tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I ngày 3/11/1946. Ông giữ cương vị “tư lệnh ngành” trong suốt 29 năm cho đến khi qua đời vào năm 1975.

 

Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên (bên phải) và bác sĩ Hồ Đắc Di – hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Y Khoa tại Văn phòng Bộ Giáo dục đóng ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang) năm 1948. Đất nước vừa kháng chiến vừa lao động, học tập. Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đã tổ chức và chủ trì nhiều hội nghị giáo dục với những nhà quản lý, trí thức và nhà giáo có uy tín để thảo luận và định ra nhiều chủ trương giáo dục phù hợp với thực tiễn kháng chiến.

Ngoài xóa mù chữ, tổ chức lớp học trong kháng chiến, đào tạo giáo viên, ông còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ học đường, nâng cao dân trí, phát triển sự nghiệp giáo dục miền núi, phát triển sử học và quốc văn vì đó là những lợi khí rèn tinh thần, tư tưởng dân tộc. 

Trong công tác, vì là trí thức không phải đảng viên cộng sản nên ông gặp nhiều trở ngại trên cương vị quản lý. Đã có lần ông Dương Xuân Nghiêm – khi đó là Vụ phó Vụ Tổ chức cán bộ của Bộ – đã lặng cả người khi nghe ông chất vấn dồn dập: “Thế nào là Đảng đoàn? Đã có Bộ trưởng, Thứ trưởng tại sao lại cần có Đảng đoàn? Đảng đoàn bao gồm tất cả các Thứ trưởng là Đảng viên, thêm 1 hay 2 thành viên khác phụ trách các Vụ quan trọng. Thế thì Đảng đoàn bàn những việc gì? Tại sao tôi là Bộ trưởng mà lại không được biết những gì Đảng đoàn bàn và quyết định…?”.

Dẫu vậy, cũng không tránh khỏi lời “ì xèo” rằng: Phải là đảng viên mới có thể lãnh đạo được quần chúng. Ông đã rất trăn trở và đi đến quyết định… xin thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục.

 

{keywords}

Lý lịch tự khai và đơn xin vào Đảng của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên

Năm 1960, khi đó tròn 30 năm thành lập Đảng Lao động VN, Đảng có chủ trương kết nạp “lớp đảng viên 6 tháng Giêng”, Đảng ủy Bộ Giáo dục muốn giới thiệu GS Huyên vào Đảng. Giữa lúc đất nước đang bị chia cắt thành 2 miền, công cuộc đấu tranh thống nhất còn khó khăn, trong một động thái cân nhắc thận trọng, Đảng ủy Bộ Giáo dục đem quyết định hỏi ý kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị.

Trong một bữa trưa mời riêng Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, Bác Hồ thẳng thắn gợi ý: “Chú ở ngoài Đảng có lợi cho cách mạng hơn”. Quyết định của Cụ Hồ có ý nghĩa rất quan trọng. “Đất nước chia cắt hai miền, rất cần người trong Đảng, ngoài Đảng, các đảng phái khác cùng tham gia chính quyền để thành một mặt trận thống nhất, đoàn kết cả nước”.  Ông Huyên rất xúc động, bởi không ai hiểu rõ tấm lòng ông hơn Hồ Chủ tịch: Dù ở cương vị nào, tổ chức nào cũng suốt đời làm việc vì lợi dân, ích nước. Suốt 30 năm giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục cho đến khi qua đời vào tháng 10/1975, ông liên tục là Đại biểu Quốc hội các khoá II- III- IV- V, là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ông cũng là một vị Bộ trưởng giữ chức vụ lâu nhất, đi cùng hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc cho đến ngày thắng lợi./

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết 10 về việc quyết định không kết nạp một số trí thức cao cấp không thuộc đảng phái nào, để “ở ngoài có lợi hơn”.

Mang danh phận ở ngoài Đảng nhưng mọi sinh hoạt của Đảng, chi bộ, Đảng ủy Bộ,  Đảng Đoàn, ông đều được mời tham dự. Đại hội Đảng toàn quốc ông là đại biểu mời. Có nghĩa ông chẳng khác nào đảng viên của Đảng, chỉ khác biệt không đóng đảng phí và tham gia biểu quyết. Chính do sự “bí ẩn” này, các con của ông dù đi bộ đội, phấn đấu đến năm 1972 mới có thể vào Đảng. (Nguyễn Kim Nữ Hạnh (1937-2010), nguyên kỹ sư thông tin của Tổng cục Đường sắt;  Nguyễn Bích Hà, Phó giáo sư, Tiến sĩ hóa học, Hiệu trưởng Trường dân lập Nguyễn Văn Huyên (Hà Nội); Nguyễn Kim Nữ Hiếu, Đại tá, Phó giáo sư, Tiến sĩ y khoa, Thầy thuốc nhân dân, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Chồng bà là GS. TS Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân Dũng; Nguyễn Văn Huy, Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

2. Thuật dùng người độc đáo của Bộ trưởng NGUYỄN VĂN HUYÊN

Đất nước vừa kháng chiến vừa học tập, công cuộc xóa mù chữ diễn ra mạnh mẽ ở cả hai miền Nam Bắc. 
Năm 1948, khi nhận được thư của đặc phái viên Phạm Văn Đồng đề nghị lo nhiều hơn tới công tác giáo dục ở miền Nam, Bộ trưởng Huyên đã ký quyết định thành lập Nha giáo dục Nam Bộ. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1949, công cuộc Bình dân học vụ ở đây thu được thắng lợi lớn, hơn 2.300 đoàn viên tổ chức dạy 1.935 lớp học, thanh toán xong nạn mù chữ ở 231 thôn trong 17 tỉnh Nam Bộ.
Đến năm 1956, Bình dân học vụ Nam Bộ đã dạy hơn 2 triệu đồng bào miền Nam biết đọc biết viết.
{keywords}
Tờ trình và công điện Bộ trưởng Huyên gửi các cơ quan mời GS  Đặng Văn Ngữ về làm việc
Năm 1950, GS Đặng Văn Ngữ là Việt kiều từ Nhật sang Bangkok, Thái Lan, rồi đi bộ qua về Lào để trở lại Nghệ An. Hay tin, GS Nguyễn Văn Huyên mời ngay về làm việc tại trường Đại học Y khoa.

Trong phiếu gửi Bộ trưởng Nội vụ ngày 18/7/1950, ông ghi: “Dự nghị định bổ dụng và tạm xếp ngạch bác sỹ Đặng Văn Ngữ làm giáo sư Trường Đại học Y khoa. Để quý Bộ ý hiệp, chuyển Bộ Tài chính thỏa thuận rồi gửi bản Bộ. Bác sỹ Đặng Văn Ngữ trước khi đi Nhật đã làm tại Trường ĐH Y khoa từ năm 1937-1943 và phụ trách thêm phòng thí nghiệm Vi trùng học trường ấy”.

{keywords}

Công điện số 74 của Bộ Giáo dục gửi Liên khu 4 cũng ghi rõ: “Yêu cầu báo bà Đặng Văn Ngữ, ở trường chuyên khoa Châu Phong, Đức Thọ, Hà Tĩnh biết là bác sỹ Đặng Văn Ngữ bận công việc quan trọng không thể vào đón được. Rồi Chính phủ sẽ tổ chức đưa ra, không cần lo. Về sinh hoạt và tài chính sẽ có giải pháp. Cứ tin tưởng vào Chính phủ và các bạn ở Liên khu 4”.

Có hai điều quan trọng liên quan cách ứng xử với trí thức. Thứ nhất là đề nghị cấp tiền để GS Đặng Văn Ngữ mang đầy đủ phòng thí nghiệm đi cùng. Thứ hai là điện cho vợ ông Ngữ biết việc đưa chồng bà an toàn ra miền Bắc làm việc, đồng thời để bà yên tâm “không phải lo về kinh tế, mọi thứ Chính phủ lo”.

2.2. Với GS Đặng Thai Mai, Bộ trưởng cũng gửi công điện cho Bộ Tài chính xin tiền đưa ông từ Thanh Hóa lên Việt Bắc, trong đó có cả việc vận chuyển nguyên thư viện của GS Mai đi cùng cũng như lo kinh phí để thuê người đưa cụ ra vì đã có tuổi.

“Sau này con gái GS Đặng Thai Mai, chị Đặng Xuyến Như viết hồi ký kể lại lúc đi từ Thanh Hóa ra Tuyên Quang, gia đình cụ thuê 13 người để toàn bộ sách vở của cụ ra đến tận Chiêm Hóa. Còn cụ Mai thì đi bộ cùng gia đình”, ông Huy kể.

{keywords}

Các tư liệu thể hiện cái tâm dùng người tài của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên được con trai út lưu trữ cẩn thận

Trường hợp của Tiến sĩ  toán học Lê Văn Thiêm cũng quyết liệt không kém. Khi hay tin ông Thiêm từ Pháp sang Bangkok, qua Campuchia về đến chiến khu ở Nam Bộ, Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên gửi ngay công điện cho ông Phạm Văn Đồng đề nghị điều động ông Thiêm ra Tuyên Quang giúp phát triển nền đại học kháng chiến.

Ông dẫn đoàn giáo dục Việt Nam tới thăm Tổng thống Mali năm 1964. Vì Việt Nam có kinh nghiệm trong việc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục nên những năm sau này, ông thường giữ nhiệm vụ phát triển quan hệ với các nước châu Phi, chủ yếu đưa chuyên gia sang giúp đỡ họ phát triển giáo dục.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên và vợ Vi Kim Ngọc. Tấm ảnh chụp tháng 8/1975 ở Liên Xô trước khi sang Đức làm phẫu thuật. Ông ra đi vào ngày 19/10/1975 khi vẫn còn đang tại vị Bộ trưởng Bộ giáo dục. Trong mắt vợ con, dù bận rộn công việc của ngành, nhưng ông vẫn là người chồng, người cha mẫu mực, “cả đời không trách mắng vợ con, không nói điều gì nặng lời to tiếng với đồng nghiệp. Không tính thiệt hơn. Ai nói gì cũng cười xòa”.

Chiếc đồng hồ Movado do Thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng các thành viên chính phủ sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954. Mặt đồng hồ có vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh là một kỷ vật Bộ trưởng Huyên yêu quý nhất. Ông đeo nó từ khi được tặng đến khi qua đời. Sau khi ông mất, những tư liệu, kỷ vật liên quan đến cuộc đời, hoạt động của ông đều được gia đình lưu giữ cẩn thận và trưng bày tại bảo tàng Nguyễn Văn Huyên.

Leave Comments

0394.411.939
0394411939