KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một vấn đề lớn, luôn được Đảng nhận thức, bổ sung phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục có những nhận thức mới được bổ sung, cụ thể hóa nhằm làm rõ hơn mục tiêu, phương hướng và các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Đại hội lần thứ XIII của Đảng; chủ nghĩa xã hội; Việt Nam

1. Quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng xác định, bổ sung và hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hóa hơn các mục tiêu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại.

Thứ nhất, về mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội

Trước hết, phải khẳng định đây là vấn đề khó khăn, phức tạp. Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ. Những mục tiêu, kế hoạch được đề ra về cơ bản không đạt, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng, buộc Đảng phải nhận thức lại và đề ra đường lối đổi mới.

Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đến Đại hội lần thứ VIII (năm 1996), Đảng tổng kết và nhận định: đất nước đã ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế – xã hội, cho phép kết thúc chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 xây dựng nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu này tiếp tục được khẳng định qua các kỳ Đại hội lần thứ IX, X, XI của Đảng. Tổng kết 30 năm đổi mới, mục tiêu đến năm 2020 xây dựng nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được, Đại hội lần thứ XII của Đảng (năm 2016) xác định lại: phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Cụ thể hóa mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011 và Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với lộ trình cụ thể: đến năm 2025, kỷ niệm 100 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người 4.700 đến 5.000 USD); đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người 7.500 USD); đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao(1) (GDP bình quân đầu người khoảng 18.000 USD)(2).

Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu theo cách tiếp cận mới về trình độ phát triển, trình độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận của Đảng trong hơn 35 năm đổi mới và trên cơ sở đánh giá, phân loại các nước theo thông lệ quốc tế, được các tổ chức quốc tế, như Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, cùng hầu hết các nước trên thế giới sử dụng(3). Vì vậy, những mục tiêu cụ thể được xác định lần này có đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước.

Thứ hai, về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội

– Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Kể từ Đại hội lần thứ VIII, Đảng xác định bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng bổ sung, phát triển. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và có sự bổ sung, cụ thể hơn. Đó là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điểm mới này là công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển bứt phá trong một số ngành và lĩnh vực. Trong đó, chú trọng “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số”(4). Đồng thời, ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường, nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

– Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu từ khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các kỳ đại hội, hội nghị của Đảng. Đến nay, cơ bản đã có sự thống nhất chung trong nhận thức. Vì vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(5). Theo đó, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một trong ba khâu đột phá chiến lược được Đảng ta xác định từ Đại hội lần thứ XI. Điểm mới lần này được xác định nội hàm rộng và cụ thể hơn, đó là “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(6).

– Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhất quán các phương hướng và có bổ sung mới về phát triển văn hóa, con người, quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(7). Trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào tiến trình phát triển của thế giới, thì việc gắn bó chặt chẽ giữa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người với hệ giá trị gia đình Việt Nam là nhận thức mới, trong đó đặt hệ giá trị gia đình vào vị thế vốn có của nó, với tư cách là tế bào của xã hội, là hạt nhân nuôi dưỡng, lưu giữ và phát huy các giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Đối với các vấn đề xã hội, Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người”(8). Điều này bảo đảm sự phát triển bền vững của con người và xã hội, thể hiện bản chất của chế độ ta là lấy con người làm mục tiêu của sự phát triển.

– Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Quốc phòng, an ninh là lĩnh vực vô cùng quan trọng và là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Qua mỗi kỳ đại hội, phương hướng xây dựng quốc phòng, an ninh tiếp tục được bổ sung những nội dung mới phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh có mặt đậm nét và có nhiều điểm mới. Đó là: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”(9). Đồng thời, xác định rõ hơn nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh; triển khai thực hiện các chiến lược về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. 

– Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.  Lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011 xác định “hội nhập quốc tế” thay cho “hội nhập kinh tế quốc tế”, không chỉ nhằm mở rộng nội hàm hội nhập kinh tế quốc tế, mà hội nhập trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm đó, đồng thời làm rõ hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế phải luôn xác định lợi ích quốc gia – dân tộc là mục tiêu tối thượng, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.

 Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”(10). Đây là sự tổng kết có tính khái quát cao về dân chủ, khẳng định bản chất của chế độ ta là dân chủ, là mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục cụ thể hóa và bổ sung một số nội dung mới: (1) Bổ sung nội dung, phương châm thực hiện dân chủ là “dân giám sát, dân thụ hưởng” thành “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; (2) Xác định rõ hơn mối quan hệ và vai trò giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”; (3) Khẳng định “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(11).

– Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(12).

Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(13). Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.

– Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đây là nhiệm vụ then chốt quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua mỗi kỳ đại hội, Đảng luôn có sự đánh giá một cách toàn diện những ưu điểm, hạn chế, bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng vừa có tính kế thừa vừa có những điểm mới phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”(14). Điểm mới so với trước đây là bổ sung “xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà cả chỉnh đốn Đảng. Đồng thời, bổ sung những nhận thức mới trong nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức(15).

Thứ ba, về các mối quan hệ lớn cần giải quyết

Các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng tổng kết, hệ thống hóa lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011. Đó là 08 mối quan hệ: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đại hội lần thứ XII, Đảng có sự điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” nhằm làm rõ hơn trong chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường; và bổ sung thêm mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã bổ sung, phát triển thành quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”.

Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(16).

Như vậy, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung mới từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là sự phản ánh quy luật khách quan, mang tính biện chứng của những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(17).

2. Một số yêu cầu về kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Để đi lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng, cần thực hiện một số yêu cầu sau:

Một là, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước theo tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Phải thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về quan điểm, đường lối của Đảng, nhất là về các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện được yêu cầu này, phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho các chủ thể nhận thức rõ ý nghĩa, trách nhiệm trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cần có các biện pháp thông tin, tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải thường xuyên quán triệt, phổ biến đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng về triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng gắn với trách nhiệm, vị trí công tác. Đối với quần chúng nhân dân, phải có nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền phù hợp, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, sát với điều kiện, trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân.

Hai là, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Quan điểm, đường lối của Đảng chỉ thực sự có ý nghĩa khi được triển khai thực hiện trong cuộc sống. Mức độ hiệu quả trên thực tế là thước đo vai trò lãnh đạo của Đảng và sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở thống nhất nhận thức, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở phải xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, gắn với điều kiện, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, địa phương, đơn vị. Triển khai đầy đủ, toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể; bảo đảm quốc phòng, an ninh; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Chú trọng thực hiện có hiệu quả 06 nhiệm vụ trọng tâm, 03 đột phá chiến lược mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định. Trong đó, phải đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, khoa học, có tính khả thi cho từng mục tiêu, chỉ tiêu, nội dung thực hiện.

Ba là, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực phát triển đất nước

Quán triệt tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng về khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực vật chất và tinh thần phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Khơi dậy và phát huy ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, giá trị văn hóa, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

Phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường. Khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Theo đó, cần hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; làm cho kinh tế – xã hội phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. 

Bốn là, đấu tranh ngăn chặn, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã, đang và tiếp tục làm mọi cách để chống phá, xuyên tạc quan điểm, đường lối phát triển đất nước mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phải luôn quán triệt tinh thần kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Một mặt, phải tổ chức thực hiện hiệu quả quan điểm, đường lối của Đảng, không tạo khoảng trống để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ âm mưu, bản chất, tác hại của các quan điểm sai trái, thù địch để chủ động phòng ngừa, đấu tranh.

 Năm là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện mới của đất nước

Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Mọi biểu hiện xét lại hoặc giáo điều trong vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là những lệch lạc, sai lầm cần phòng tránh và phê phán. Kiên định, vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, xuyên suốt, nhất quán trong quá trình đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong bất kỳ điều kiện, tình huống nào cũng phải kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định các bước đi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

(Dẫn theo Tác giả: TS. Phạm Văn Giang và ThS. Cao Thi Hiệu, Học viện Chính trị khu vực III, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bài Đăng trên Tạp chí Khoa học chính trị số 10-2021)

————————————————-

(1), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (11), (13), (14), (15), (16) và (17) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.112, 123, 128, 203, 143, 147-148, 157- 158, 172-174, 175, 57, 180-199, 119 và 103

(2) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Các chuyên đề lớp Bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII của Đảng, q.1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2021, tr.33

(3) Tháng 7/2020, Ngân hàng Thế giới công bố tiêu chí phân loại các nước theo thu nhập bình quân đầu người: nước có thu nhập thấp là nước có thu nhập bình quân đầu người dưới 1.036 USD/năm (tiêu chí công bố năm 2019 là 1.026 USD/năm); nước có thu nhập trung bình thấp là nước có thu nhập bình quân đầu người từ 1.036 đến dưới 4.045 USD/năm (tiêu chí công bố năm 2019 là từ 1.026 – 3.395 USD/năm); nước có thu nhập trung bình cao là nước có thu nhập bình quân đầu người từ 4.045 đến dưới 12.535 USD/năm (tiêu chí công bố năm 2019 là 8.395 – 12.375 USD/năm); nước có thu nhập cao là nước có thu nhập bình quân đầu người trên 12.535 USD/năm

(10) và (12) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.84 và 85

Leave Comments

0394.411.939
0394411939