Tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc

Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Từ khi ra đời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập hợp đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy cao độ, trở thành động lực của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Thực hiện lời dạy của Người: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đang là động lực kết nối sức mạnh vô dịch của toàn dân tộc Việt Nam.

Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu đó là kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong công tác dân vận tiếp tục được khẳng định và nâng cao trong đời sống chính trị – xã hội của đất nước. Mối quan hệ gắn bó giữa Mặt trận và các đoàn thể với các tầng lớp nhân dân ngày càng được củng cố, tăng cường phát huy. Đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về đại đàon kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện và thể chế hóa bằng các chính sách pháp luật. Các tầng lớp nhân dân chung sức, chung lòng cùng Đảng, Nhà nước vượt qua khó khăn, thử thách giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, nâng cao đời sống nhân dân và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã và đang kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, góp phần to lớn tạo nên sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong xây dựng, phát triển nhanh, bền vững đất nước. Các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xã hội rộng lớn do Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tích cực. Đặc biệt, các phong trào, cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”,“Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền biển đảo, phòng chống thiên tai, bão lũ và đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, các hoạt động tự quản ở cộng đồng dân cư… có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng xây dựng quê hương, đất nước. Nhất là, từ đàu năm 2020, đại dịch Covid bùng phát, diễn biến phức tạp trên toàn cầu và ở Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và nhân dân ta đoàn kết, đồng lòng thực hiện “chống dịch như chống giặc” để đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe của nhân dân và ổn định phát triển sản xuất, thực hiện mục tiêu kép được quốc tế đánh giá cao.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” được các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể tổ chức triển khai sâu rộng, đã làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Người thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết ngay tại địa phương, cơ sở.

 Tuy nhiên, việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn kết quả còn thấp; nhiều nguồn lực trong nhân dân chưa được phát huy hiệu quả; đời sống của một bộ phân nhân dân còn khó khăn; khoảng cách giữa các vùng miền, khu vực còn lớn. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” chưa cụ thể hóa kịp thời; quyền làm chủ của nhân dân có nơi còn bị vi phạm; khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân có lúc, có nơi chưa gắn bó chặt chẽ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội chưa phát huy hết vai trò tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân; chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm đại diện quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân; hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm chủ yếu là: Nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng và thiếu tích cực trong việc triển khai Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới; một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu gương mẫu; chưa thực sự tôn trọng nhân dân, không kịp thời giải quyết những bức xúc, kiến nghị của người dân. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm rõ nội dung cốt lõi về đại đoàn kết toàn dân tộc, về sự biến động và những vấn đề mới đặt ra đối với mỗi giai tầng, về liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong điều kiện mới. Một số chính sách, pháp luật được ban hành chưa sát với thực tiễn cuộc sống, khi thực hiện gây nhiều bức xúc trong nhân dân; có chủ trương đúng nhưng chậm được triển khai, thực hiện.

Trước tình hình mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối, chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu “xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, cần tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí, nghị lực và sức sáng tạo của con người Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó, cần tập trung vào các chủ trương, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chú trọng công tác chính trị tư tưởng, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục về tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, khoan dung; trách nhiệm công dân; đạo đức xã hội cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chủ động phát hiện từ sớm, từ xa, kịp thời xử lý, kiên quyết đấu tranh phòng, chống các âm mưu, hành động chia rẽ Nhân dân với Đảng và Nhà nước, chia rẽ và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách phù hợp với giai đoạn mới nhằm phát huy mạnh mẽ các giai tầng xã hội, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển của cả dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh“. Tăng cường, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò, sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân.

Ba là, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội; nâng cao năng lực dự báo tình hình, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương và ban hành nghị quyết, chính sách, pháp luật. Thực hành và phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị, làm hạt nhân lãnh đạo tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đoàn kết người Việt Nam ở trong và ngoài nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước trong xây dựng và thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Việc xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ sự đòi hỏi thực tiễn của cuộc sống, từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Mọi hoạt động của cơ quan trong hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ nhân dân, lo trước nhân dân, vui sau nhân dân; lấy ấm no và hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thực hiện đúng đắn chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước.

Năm là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội; phát huy nhân tố con người là trung tâm, là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu, là mục tiêu của đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, hình thức phù hợp để nhân dân tham gia ý kiến đối với những vấn đề lớn và đặc biệt quan trọng của đất nước. Phát huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của nhân dân, trọng tâm là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; nêu cao trách nhiệm giải trình, tiếp thu của các cơ quan quản lý nhà nước về những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và sự phát triển bền vững đất nước.

Sáu là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, các hội quần chúng theo hướng sáng tạo, thiết thực vận động quần chúng, huy động mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.

Bảy là, đổi mới phong trào thi đua theo hướng thiết thực, kịp thời, hiệu quả hướng mạnh về cơ cở để người dân có nhiều cơ hội tham gia, thực sự là chủ thể trong phát triển kinh tế, lao động sản xuất, sáng tạo, làm giàu cho gia đình, xã hội, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với chính quyền đề xuất các phong trào thi đua yêu nước phù hợp thực tiễn, nhất là lĩnh vực khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, tạo việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, mang lại hạnh phúc cho mọi người dân nhằm gắn kết cộng đồng, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển trong mỗi người

Leave Comments

0394.411.939
0394411939